Chiều xuân - Nguyễn Bính
Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa
Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa
Cây cam cây quít cành giao nối
Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa.
Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân ?
Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần
Bươm bướm cứ bay không ướt cánh
Người đi trẩy hội tóc phơi trần.
Đường mát da chân lúa mát mình
Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh
Gò cao đứng sững trâu bềnh bụng
Nghếch mõm nghe vang trống hội đình.
Núi lên gọn nét đá tươi màu
Xe lửa về Nam chạy chạy mau
Một toán cò bay là mặt ruộng
Thành hàng chữ nhất trắng phau phau.
Bãi lạnh bờ dâu sẫm lá tơ
Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ
Chiều xuân lưu luyến không đành hết
Lơ lững mù sương phảng phất mưa.
1958
Phân tích bài thơ “Chiều Xuân” của Nguyễn Bính
Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới (1932-1945), nổi bật với phong cách thơ mang đậm màu sắc dân gian, giản dị mà sâu lắng. Bài thơ “Chiều Xuân” thể hiện rõ nét chất thơ của ông, với những hình ảnh gợi tả thiên nhiên làng quê Việt Nam trong một buổi chiều xuân êm đềm, phảng phất nét buồn man mác.
Bài thơ mở đầu bằng một khung cảnh chiều xuân đầy thơ mộng:
“Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa
Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa”
Không gian chiều xuân hiện lên nhẹ nhàng, với “mùi hương thoảng” trong gió, “mưa bụi rắc thưa thưa” gợi cảm giác mơ hồ, mong manh. Cách diễn đạt mang đậm màu sắc cổ điển, gần gũi với ca dao dân ca. Từ “tà tà” và “thưa thưa” không chỉ tả cảnh mà còn tạo nhịp thơ chậm rãi, phù hợp với không khí của buổi chiều xuân.
Nhịp thơ chậm rãi này cũng từng xuất hiện trong những bài thơ khác của Nguyễn Bính như “Mưa xuân” (“Em là con gái trong khung cửi / Dệt lụa quanh năm với mẹ già”) hay “Lỡ bước sang ngang” (“Em ơi! Em ở lại nhà / Vườn dâu em hái mẹ già em trông”), đều tạo cảm giác dịu dàng, chậm rãi, phù hợp với không gian thôn quê yên bình.
Thiên nhiên trong “Chiều Xuân” không chỉ có mưa bụi mà còn có những hình ảnh rất đặc trưng của làng quê Bắc Bộ:
“Cây cam cây quít cành giao nối
Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa.”
Chi tiết “cây cam cây quít” và “lá ngửa lòng tay” thể hiện sự gắn bó của con người với thiên nhiên, tạo cảm giác gần gũi, giản dị. Nguyễn Bính rất hay dùng hình ảnh cây cỏ quen thuộc để vẽ lên hồn quê, giống như trong bài “Mưa xuân” với câu:
“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.”
Tương tự, hình ảnh “bươm bướm cứ bay không ướt cánh” trong “Chiều Xuân” gợi sự tinh tế, thanh thoát, làm nổi bật nét nhẹ nhàng, trong trẻo của mùa xuân.
Nếu ở đầu bài thơ, cảnh sắc làng quê thiên về sự tĩnh lặng, thì ở những khổ sau, không khí lễ hội xuất hiện:
“Người đi trẩy hội tóc phơi trần
Đường mát da chân lúa mát mình
Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh.”
Hình ảnh “người đi trẩy hội tóc phơi trần” cho thấy sự hồn nhiên, dân dã của con người thôn quê. Không khí hội xuân cũng từng xuất hiện trong bài “Chân quê”:
“Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.”
Nhưng nếu trong “Chân quê”, hội xuân có phần nhộn nhịp, thì trong “Chiều Xuân”, không khí hội xuân lại mang dáng vẻ êm đềm, hòa hợp với thiên nhiên.
Khổ thơ cuối đưa người đọc trở về với sự lặng lẽ của chiều xuân:
“Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ
Chiều xuân lưu luyến không đành hết
Lơ lửng mù sương phảng phất mưa.”
Hình ảnh “giọng chuông mờ” gợi lên sự xa xăm, trầm lắng, giống như tiếng chuông trong “Nhớ chùa” của Huyền Không:
“Mỗi lần nghe chuông chùa
Hồn lại thoáng hương xưa.”
Không khí “lơ lửng mù sương” tạo cảm giác bâng khuâng, lưu luyến, làm cho bài thơ có chút buồn nhẹ nhàng, một nỗi buồn man mác rất đặc trưng của Nguyễn Bính.
“Chiều Xuân” là một bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Bính, vừa mang vẻ đẹp dân dã, vừa giàu chất trữ tình. Thiên nhiên, con người và không khí lễ hội hòa quyện tạo nên một bức tranh mùa xuân mơ màng, gợi cảm giác yên bình và lưu luyến. So với nhiều bài thơ cùng thời, “Chiều Xuân” có một nét riêng: không sôi nổi như “Chân quê”, không trĩu nặng như “Lỡ bước sang ngang”, mà dịu dàng, lặng lẽ, thấm đẫm hồn quê.
Tập Thơ thơ xuất bản năm 1938
https://ngducbang09.wordpress.com/2024/08/18/doi-tra/
In trong tập Thơ thơ, xuất bản năm 1938
https://ngducbang09.wordpress.com/2024/08/18/ca-tung/